Ở Đông Á, đeo khẩu trang thường được coi là trách nhiệm chung để giảm lây truyền bệnh và có thể tượng trưng cho sự đoàn kết.
Việc khẩu trang gần như được bán hết trên toàn thế giới cho thấy mức độ hoảng loạn của người dân trước sự lan rộng của Covid-19. Thế nhưng, việc mọi người quyết định đeo chúng ở nơi công cộng hay không còn phụ thuộc vào yếu tố địa lý.
Ở Đông Á, nơi những ký ức về đại dich SARS bùng phát 17 năm trước vẫn còn mạnh mẽ, việc đeo khẩu trang khi ra ngoài đã trở thành thông lệ. Nhiều người coi đây là trách nhiệm chung trong việc ngăn chặn sự lây truyền virus khi mà hơn 120.000 trường hợp dương tính đã được xác nhận tại hơn 100 quốc gia.
Một số doanh nghiệp bắt đầu yêu cầu khách hàng đeo khẩu trang khi ra vào cửa hàng. Chính quyền các thành phố lớn ở Trung Quốc - bao gồm Bắc Kinh và Thượng Hải - đã phát lệnh bắt buộc người dân phải đeo khẩu trang ở nơi công cộng.
Mặt khác, ở nhiều nước châu Âu và Mỹ, khẩu trang bị coi là một cái cớ vô lý để phân biệt chủng tộc và bêu xấu những người gốc Đông Á.
Cụ thể, một sinh viên Trung Quốc từ Đại học Sheffield của Anh đã bị quấy rối vào tháng 1 vừa qua vì đeo khẩu trang. Ở một diễn biến khác, một phụ nữ Trung Quốc đã bị tấn công và bị coi như người nhiễm bệnh ở thành phố New York vào tháng 2 chỉ vì đeo khẩu trang đến những nơi công cộng.
Tổ chức Y tế Thế giới cho biết những người khỏe mạnh thường không cần phải đeo khẩu trang.
Jerome Adams, một bác sĩ phẫu thuật người Mỹ kiêm phát ngôn viên của Chính phủ liên bang về sức khỏe cộng đồng, kêu gọi người Mỹ ngừng mua khẩu trang, vì nó có thể dẫn đến tình trạng thiếu nguồn cung cho nhân viên chăm sóc sức khỏe.
“Mọi người hãy ngừng mua khẩu trang ngay! Chúng không có tác dụng nhiều trong việc ngăn chặn virus corona đâu. Nếu như lực lưỡng y tế không có đủ trang thiết bị để làm công việc của họ, điều đó mới thực sự khiến cộng đồng của chúng ta gặp nguy hiểm!”, ông viết trên Twitter.
Các chuyên gia y tế có nhiều quan điểm trái chiều về hiệu quả của khẩu trang trong việc ngăn chặn sự lây lan của virus. Ảnh: SCMP.
Các chuyên gia y tế có nhiều quan điểm trái chiều về hiệu quả của khẩu trang trong việc ngăn chặn sự lây lan của virus corona vì chúng lây truyền qua các giọt bắn từ việc ho hoặc hắt hơi.
Một số người khẳng định việc rửa tay là quan trọng hơn, trong khi những người khác tin rằng khẩu trang có thể giúp ngăn chặn lây truyền từ những người có triệu chứng.
Nhưng nhìn chung, các chuyên gia cùng cho rằng bối cảnh văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc mọi người có sẵn sàng đeo khẩu trang hay không.
Khẩu trang là phổ biến ở Đông Á, không chỉ đối với sự bùng phát virus mà còn để bảo vệ sức khỏe con người khỏi tình trạng ô nhiễm không khí và thậm chí chống chọi với thời tiết giá lạnh.
Ví dụ như Nhật Bản, đất nước có một lịch sử lâu dài đeo khẩu trang từ thời dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918 - 1919. Thói quen đeo khẩu trang đã trở thành hành vi gắn kết xã hội, một biện pháp tự bảo vệ và là trách nhiệm tập thể.
“Tại Nhật Bản, khẩu trang đã trở thành một phương pháp phòng ngừa bệnh cúm rất phổ biến từ những năm 70 – 80. Gần đây, Nhật Bản bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi sự ô nhiễm không khí từ Trung Quốc nên mọi người lại càng thường xuyên đeo khẩu trang hơn”, ông Mits Mitsutoshi Horii, giáo sư tại Đại học Shumei, cho biết.
Ông bổ sung: “Người dân Nhật Bản cũng đeo khẩu trang để che các khuyết điểm trên khuôn mặt, giữ ấm trong mùa đông và che giấu vẻ nhút nhát, để cảm thấy an toàn hơn. Nhưng ở phương Tây, vì sự tự tôn mạnh mẽ và niềm tin vào tầm quan trọng của khuôn mặt, mọi người có cái nhìn không tích cực về việc đeo khẩu trang”.
Ở Nhật Bản, thói quen đeo khẩu trang đã trở thành hành vi gắn kết xã hội. Ảnh: SCMP.
Quan chức ở Hong Kong và Trung Quốc đã bị khiển trách khi dịch Covid-19 bùng phát ở các nước này vì không yêu cầu người dân đeo khẩu trang một cách nghiêm ngặt. Điều này cũng được củng cố từ một số thất bại khi kiểm soát dịch SARS của chính phủ.
Maria Sin Shun-ying từ Đại học Hong Kong đã viết về những tồn tại trong việc đẹo khẩu trang ở các nước phương Tây hồi dịch SARS bùng phát vào năm 2014.
“Những bức ảnh ấn tượng chụp đám đông đeo khẩu trang đi dạo ở các thành phố châu Á như Hong Kong, đã được lan truyền và phổ biến trên toàn cầu. Người đeo khẩu trang luôn luôn bị phân biệt chủng tộc và các phương tiện truyền thông phương Tây gọi đó là ‘một hiện tượng Châu Á’”.
Nhưng kể từ dịch SARS, đeo khẩu trang để chống ô nhiễm đã ngày càng phổ biến ở châu Á nhờ các nhà thiết kế thời trang và những người nổi tiếng, bao gồm các thành viên của nhóm nhạc nam Hàn Quốc BTS.
Trong đợt bùng phát Covid-19, các ngôi sao phương Tây như Bella Hadid, Kate Hudson và Gwyneth Paltrow đã đăng ảnh đeo khẩu trang trên phương tiện truyền thông xã hội.
Nhà thiết kế người Croatia, Zoran Aragovic, đã cho ra mắt bộ sưu tập khẩu trang đặc biệt hồi đầu tháng 3. Ở Philipines, 220 cặp đôi đã đeo khẩu trang và tham gia một đám cưới tập thể ở thành phố Bacolod vào tháng 2.
“Tại Bắc Mỹ, đeo khẩu trang vẫn được xem như thói quen đặc trưng của người châu Á. Nó dần trở thành một biểu tượng kỳ thị, đặc biệt là khi số đông không đeo khẩu trang thường xuyên”, Harris Ali, một nhà xã hội học tại Đại học Canada York, cho biết.
Kể từ dịch SARS, đeo khẩu trang để chống ô nhiễm đã ngày càng phổ biến ở châu Á. Ảnh: SCMP.
Thời dịch SARS, khẩu trang ở Hong Kong đã trở thành một biểu tượng cho sự đoàn kết chống lại căn bệnh.
Theo ông Ali, trong một nền văn hóa đề cao tính tập thể, việc đeo khẩu trang có ý nghĩa quan trọng hơn so với thế giới phương Tây.
“Những lo ngại về dịch bệnh có thể tạm thời làm giảm thái độ tiêu cực của người phương Tây với khẩu trang nhưng về lâu về dài, rất khó thay đổi định kiến sâu sắc này. Rồi họ sẽ cố tìm kiếm những bằng chứng khoa học để chứng minh cho lập luận tiêu cực về việc đeo khẩu trang”, giáo sư Horii nói.
Theo Zing.vn
Bình Luận